BLHS 2015 được thông qua đã sửa đổi, bổ sung nhiều Điều, khoản, điểm đối với một số loại tội phạm, trong đó có tội “Làm nhục người khác” được quy định tại Điều 155, thuộc Chương XIV Các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Tuy nhiên, qua tham khảo một số trường hợp đối tượng có hành vi đăng clip, ảnh khỏa thân nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác vẫn còn một số quan điểm khác nhau về định tội danh, định khung hình phạt và quan niệm về sỉ nhục người khác tội gì. Qua bài viết dưới đây, Luật Rong Ba sẽ giúp quý khách hàng giải đáp về vấn đề sỉ nhục người khác tội gì.
Sỉ nhục người khác tội gì?
Sỉ nhục (hay làm nhục) người khác là một trong những hành vi xâm phạm đến quyền của con người đối với danh dự, nhân phẩm được pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong nhiều quy định pháp luật khác nhau, từ đạo luật cao nhất là hiến pháp cho đến các quy định pháp luật chuyên ngành. Nhằm bảo vệ một trong những quyền quan trọng nhất của công dân, Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 (Bộ luật Hình sự) về tội làm nhục người khác được quy định tại Điều 155 như sau:
“Điều 155. Tội làm nhục người khác
Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Đối với người đang thi hành công vụ;
đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình;
e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên
b) Làm nạn nhân tự sát.
Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Cấu thành tội phạm sỉ nhục người khác tội gì?
Khi tìm hiểu về sỉ nhục người khác tội gì, chúng ta cùng tìm hiểu về về cấu thành tội phạm để có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này quý vị nhé! Theo quy định trên, cấu thành tội phạm của tội này bao gồm:
Chủ thể của tội làm nhục người khác
Chủ thể của tội làm nhục người khác theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 là các cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt đến độ tuổi luật định:
“Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”
Như vậy theo quy định trên, đối với tội làm nhục người khác, cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi vi phạm.
Khách thể của tội làm nhục người khác
Khách thể của tội làm nhục người khác là danh dự, nhân phẩm của con người được pháp luật hình sự bảo vệ. Đối tượng tác động của tội này là nhân phẩm, danh dự của người khác.
Mặt khách quan của tội làm nhục người khác
a) Hành vi khách quan
Hành vi khách quan của tội làm nhục người khác là hành vi được thể hiện bằng lời nói hoặc hành động (dùng chữ viết, đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng, đưa lên mạng xã hội,…) nhằm xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự của người khác như lăng mạ, chửi rủa,… Người thực hiện hành vi làm nhục người khác với mong muốn cho người bị hại cảm thấy bị nhục nhã. Việc cảm thấy nhục nhã có thể bị tác động bởi nhiều cách thức khác nhau như bản thân người bị hại tự cảm thấy nhục hoặc vì sự đánh giá của xã hội.
Để làm nhục người khác, người phạm tội có thể có những hành vi vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực như: bắt trói, tra khảo, vật lộn, đấm đá hoặc dùng phương tiện nguy hiểm khống chế đe dọa buộc người bị hại phải làm theo ý muốn của mình, nhưng tất cả các hành vi, thủ đoạn đó chỉ nhằm mục đích là làm nhục chứ không nhằm mục đích khác. Nếu hành vi đó lại cấu thành một tội riêng thì tùy trường hợp cụ thể người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục và tội tương ứng với hành vi đã thực hiện. Đặc trưng của hành vi này là được thực hiện một cách công khai và trước nhiều người.
b) Hậu quả
Đối với tội làm nhục người khác, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành nên tội phạm. Tội phạm được coi là hoàn thành từ khi người phạm tội có lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. Tuy nhiên trong thực tế, việc xác định như thế nào là xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người khác lại là một vấn đề phức tạp, bởi lẽ nó phụ thuộc vào nhận thức và cảm nhận của mỗi người. Có thể đối với cùng một hành vi nhưng có người thấy bình thường, có người lại cảm thấy bị làm nhục. Do đó, nếu chỉ căn cứ vào ý thức, nhận thức của người phạm tội và người bị hại thì chưa đủ để xác định hành vi đó có phạm tội hay không mà còn cần kết hợp với một số yếu tố khác như trình độ nhận thức, phong tục tập quán, địa vị xã hội, dư luận xã hội,… Trong đó dư luận xã hội trong trường hợp này có ý nghĩa quan trọng để xác định trách nhiệm hình sự đối với hành vi của người đó.
Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội làm nhục người khác
Người phạm tội khi thực hiện hành vi làm nhục người khác nhằm xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của người bị hại. Tội làm nhục người khác được thực hiện do cố ý, nghĩa là người phạm tội ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Động cơ của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội có thể là để trả thù chính người bị hại hoặc người thân của họ, để thỏa mãn thú vui,… Do đó, tội làm nhục người khác không có trường hợp do vô ý.
Cách ngăn chặn sỉ nhục người khác tội gì
Việc này đang gây rối trật tự xã hội, khiến dư luận bức xúc đặt ra yêu cầu cần chấn chỉnh và có khuôn khổ cho việc sử dụng mạng xã hội.
Người dân cũng đòi hỏi pháp luật phải là thước đo để xử lý các hành vi gây rối trật tự từ mạng xã hội và tạo ra khuôn khổ cho hành xử chung.
Xử lý nghiêm để răn đe
Luật sư Hà Hải – phó chủ nhiệm Đoàn luật sư TP.HCM – cho hay các hành vi sử dụng mạng xã hội để xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín người khác tùy theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Về xử lý hành chính, nghị định 15/2020/NĐ-CP có quy định xử phạt cụ thể nếu cá nhân, trang tin điện tử, tổ chức thiết lập mạng xã hội thông tin xúc phạm nhân phẩm, danh dự, uy tín của cá nhân, tổ chức tại các điều 99, 100, 101.
Về trách nhiệm hình sự, người sử dụng mạng xã hội để vu khống, xúc phạm, tấn công người khác tùy mức độ có thể bị xử lý hình sự về tội danh “vu khống”, tội “làm nhục người khác” hoặc tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của cá nhân, tổ chức”.
Cá nhân, tổ chức bị xúc phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm cũng có thể khởi kiện dân sự đòi xin lỗi, cải chính và bồi thường thiệt hại.
Đồng tình, luật sư Lê Quang Vũ – Đoàn luật sư TP.HCM – cũng phân tích để xử lý hành chính hoặc hình sự thông thường người bị xúc phạm có thể đề nghị đến sở thông tin và truyền thông, tố cáo tới cơ quan cảnh sát điều tra đối với cá nhân, tổ chức đưa thông tin sai lệch, xúc phạm.
Đối với các tội “vu khống” và “làm nhục người khác”, thông thường cơ quan cảnh sát điều tra xử lý trên cơ sở tố giác của người bị vu khống, bị làm nhục.
Còn đối với tội danh “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của cá nhân, tổ chức”, cơ quan chức năng sẽ xử lý mà không cần tố giác của người bị xúc phạm.
“Với những trường hợp livestream xúc phạm nhiều người, nhiều giới, tạo ra dư luận xấu, gây rối trật tự trị an trong thời gian dài thì cơ quan công an cần chủ động vào cuộc thu thập chứng cứ xử lý nghiêm để răn đe chung, tránh tạo tiền lệ nguy hiểm phát sinh các hành vi tương tự. Viện trưởng Viện KSND tối cao Lê Minh Trí cũng có ý kiến vấn đề này tại kỳ họp Quốc hội mới đây” – luật sư Quang Vũ nói.
Siết vai trò nhà mạng
Góp thêm giải pháp, tiến sĩ Thái Thị Tuyết Dung – Trường ĐH Kinh tế – luật, ĐH Quốc gia TP.HCM – cho rằng Nhà nước cần có các biện pháp để hướng các tranh chấp trên mạng xã hội phải được giải quyết bằng pháp luật.
Để giảm bớt việc Nhà nước chạy theo những phát sinh rất phức tạp từ mạng xã hội, cần ban hành quy định chuyển trách nhiệm xử lý ban đầu cho các công ty công nghệ, ràng buộc điều kiện đối với các công ty để giảm bớt hậu quả phát sinh từ hành vi xúc phạm uy tín, danh dự cá nhân, tổ chức.
Những hành vi vi phạm trên không gian mạng ngày càng nhiều, đa dạng. Trong đó, những vụ lợi dụng truyền thông, mạng xã hội để bôi nhọ, tấn công, xúc phạm người khác gần đây nhưng không bị xử lý sẽ khiến họ nhầm tưởng rằng sẽ không sao cả khi vi phạm tràn lan như một hiện tượng xã hội…
Tiến sĩ TUYẾT DUNG
Theo tiến sĩ Tuyết Dung, hiện nay nhiều quốc gia đang tính đến xử lý, buộc các công ty công nghệ như Facebook, YouTube, Google… phải lập hàng rào kỹ thuật để xử lý hậu quả nhanh hơn trước khi tiến hành thủ tục pháp lý. Và Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm từ các quốc gia này.
Ví dụ Singapore đã ban hành Luật ngăn ngừa sai lệch và thao túng tin tức trên mạng (có hiệu lực tháng 10-2019) cho phép xử lý cả các mạng trung gian, kể cả tài khoản có nguồn gốc ngoài Singapore nhưng thông tin đang lan truyền ở Singapore. Cơ quan chức năng có quyền yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ Internet (hoặc trung gian Internet) chặn truy cập với thông tin sai lệch hoặc sai sự thật. Nếu không tuân thủ lệnh chặn truy cập sẽ bị phạt tới 20.000 SGD (đô la Singapore)/ngày.
Cá nhân vi phạm sẽ bị phạt đến 50.000 SGD (khoảng 850 triệu đồng), hoặc phạt tù đến 5 năm. Mức phạt gấp 2 lần nếu đăng bằng tài khoản online không chính danh.
Còn Ai Cập năm 2018 đã thông qua “Luật tổ chức báo chí, truyền thông và Hội đồng tối cao về phương tiện truyền thông số 180” cho phép lập ra hội đồng để quản lý các tài khoản mạng xã hội blog hoặc trang web có hơn 5.000 người theo dõi…
Dịch vụ hỗ trợ khách hàng về sỉ nhục người khác tội gì
Tư vấn qua Tổng đài: Đây là hình thức tư vấn được nhiều khách hàng sử dụng nhất, vì bạn có thể đặt thêm các câu hỏi về Luật lăng mạ danh dự của người khác như làm thế nào để bảo vệ mình, có thể khởi kiện hay tố cáo không… Chỉ sau một vài câu hỏi của Luật Sư, vấn đề của bạn sẽ được giải quyết; bạn có thể gọi cho Luật Rong Ba vào bất cứ thời gian nào chúng tôi luôn sẵn sàng tư vấn cho bạn.
Tư vấn qua Email: Bạn có thể gửi Email câu hỏi về Luật lăng mạ danh dự của người khác tới địa chỉ Email của Luật Rong Ba, chúng tôi sẽ biên tập và trả lời qua Email cho bạn. Tuy nhiên việc trả lời qua Email sẽ mất nhiều thời gian và không thể diễn tả được hết ý của câu hỏi vì vậy bạn nên gọi cho Luật Rong Ba để được tư vấn tốt nhất.
Trên đây là một số khía cạnh liên quan đến sỉ nhục người khác tội gì. Luật Rong Ba hy vọng bài viết trên đã có thể giúp quý khách hàng hiểu rõ hơn phần nào về sỉ nhục người khác tội gì. Nếu như bạn đang gặp phải khó khăn trong quá trình tiến hành áp dụng pháp luật vào giải quyết công việc hoặc những tình huống phát sinh trong cuộc sống hàng ngày, hãy liên hệ Luật Rong Ba để được tư vấn miễn phí. Chúng tôi chuyên tư vấn các thủ tục pháp lý trọn gói, chất lượng, uy tín mà quý khách đang tìm kiếm.