Hành vi chửi bới lăng mạ người khác

hành vi chửi bới lăng mạ người khác

Hiện này, hành vi chửi bới lăng mạ người khác, bôi nhọ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác là hành vi vi phạm bị pháp luật nghiêm cấm. Do vậy, cá nhân bị bôi nhọ, xúc phạm danh dự dù dưới bất cứ hình thức nào đều có quyền làm đơn tố cáo tới cơ quan có thẩm quyền để được giải quyết. Vậy những hành vi nào được coi là hành vi chửi bới lăng mạ người khác? Hãy cùng Luật Rong Ba tìm hiểu qua bài viết sau đây.

Hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm là gì?

Để hiểu rõ hơn thế nào là hành vi chửi bới lăng mạ người kháchãy cùng tìm hiểu một số khái niệm sau theo quy định pháp luật hiện hành để có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này quý vị nhé!

Hiện nay, pháp luật chưa có khái niệm cụ thể thế nào là xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác. Tuy nhiên có thể hiểu xúc phạm danh dự nhân phẩm là dùng những lời lẽ thô bỉ, tục tĩu đế nhục mạ nhằm hạ uy tín gây thiệt hại về danh dự, nhân phẩm cho người khác. Tùy theo tính chất, mức độ của từng vụ việc có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm được xác định là tội phạm xâm phạm danh dự nhân phẩm được hiểu là các tội phạm xâm phạm, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, tức là các tội quy định đối với những người (có năng lực trách nhiệm dân sự và từ đủ 16 tuổi trở lên) thực hiện những hành vi một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm tới quyền được Hiến pháp và pháp luật hình sự ghi nhận và bảo vệ.

Lỗi vô ý là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; hoặc trường hợp người phạm tội không thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Ngược lại với lỗi vô ý là lỗi cố ý.

Các tội này được quy định từ Điều 123 đến Điều 156 chương XIV Bộ luật Hình sự 2015; có thể được chia thành ba nhóm:

Nhóm tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm (có 14 tội thuộc nhóm này): được quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147, 150, 151, 152, 153, 154, 155, 156 BLHS (hậu quả của những tội phạm này không phải là dấu hiệu bắt buộc để truy cứu trách nhiệm hình sự). Trong có thể được chia thành 3 nhóm sau:

Các tội trực tiếp xâm phạm thân thể: được quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147. Trong nhóm tội này, hành vi phạm tội không những đến danh dự, nhân phẩm thậm chí có thể xâm hại đến sức khỏe, tính mạng của người bị hại. Vì khi thực hiện những hành vi phạm tội trong nhóm này đã trực tiếp gây tổn hại đến sức khỏe của người bị hại đồng thời danh dự, nhân phẩm cũng bị ảnh hưởng.

Các tội không liên quan đến ý thức chủ quan của người bị xâm hại: bao gồm các tội quy định tại Điều 150, 151, 152, 153, 154 BLHS. Trong nhóm tội này, lỗi của người phạm tội luôn là lỗi cố ý; CTTP không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người bị hại; người bị hại có thể đồng tình hoặc không đồng tình, có thể biết hoặc không biết, chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi theo như quy định trong BLHS thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Các tội liên quan đến danh dự: được quy định tại các Điều 155, 156 BLHS. Theo đó, xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác (Điều 155 BLHS) có thể hiểu là làm tổn thương nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác. Mức độ nghiêm trọng cụ thể của hành vi phụ thuộc vào thái độ, nhận thức, mục đích của người phạm tội (mong muốn làm nhục người khác) cường độ và thời gian kéo dài của hành vi xúc phạm; môi trường diễn ra hành vi xúc phạm, sự tác động cụ thể đối với người bị hại (ảnh hưởng về tâm lý)…

hành vi chửi bới lăng mạ người khác
hành vi chửi bới lăng mạ người khác

Hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm bị xử lý dân sự như nào?

Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều 592 Bộ luật dân sự và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. (Theo Điều 592 Bộ luật dân sự).

Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại. (Theo Khoản 5 Điều 34 Bộ luật dân sự).

Khi làm đơn khởi kiện, cần lưu ý ghi đầy đủ, chính xác thông tin của bên tố cáo, trường hợp biết rõ thông tin của bên bị tố cáo thì ghi nội dung thông tin này vào. Bôi nhọ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác là hành vi vi phạm bị pháp luật nghiêm cấm. Do vậy, cá nhân bị bôi nhọ, xúc phạm danh dự dù dưới bất cứ hình thức nào đều có quyền làm đơn tố cáo tới cơ quan có thẩm quyền để được giải quyết. Tùy thuộc vào vụ việc tố cáo, chi tiết nội dung đơn tố cáo sẽ không giống nhau, tuy nhiên, thông thường mỗi đơn tố cáo sẽ gồm các nội dung sau:

– Cơ quan tiếp nhận đơn tố cáo;

– Thông tin của cá nhân/tổ chức làm đơn tố cáo và cá nhân/tổ chức bị tố cáo, gồm: Họ tên, địa chỉ, số Chứng minh nhân dân/Căn cước công dân…

– Nội dung tố cáo;

– Yêu cầu của người tố cáo đối với nội dung tố cáo;

– Chứng cứ kèm theo (nếu có) – Cam đoan thông tin tố cáo là đúng sự thật;

– Chữ ký của người làm đơn tố cáo.

Đặc biệt, nội dung đơn tố cáo phải được trình bày khoa học, rõ ràng, diễn tả lại hành vi phạm tội theo trình tự không gian thời gian cụ thể để qua đó, cơ quan chức năng xác định có hay không hành vi vi phạm pháp luật để tiến hành xem xét, thẩm định đơn theo quy định.

Hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm bị xử lý hành chính như nào?

Tại Khoản 1 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP như sau: “Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi như có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự,nhân phẩm của người khác’’.

Hoặc Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi đưa thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân (điểm a khoản 3 Điều 99 Nghị định 15/2020/NĐ-CP).

Hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm bị xử lý hình sự như nào?

Hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm sẽ bị xử lý hình sự theo các quy định tại Bộ luật Hình sự như sau:

Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm:

a) Phạm tội nhiều lần;

b) Đối với nhiều người;

c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

d) Đối với người thi hành công vụ;

đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình.

Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

Làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của con người.

Người phạm tội phải là người có hành vi (bằng lời nói hoặc hành động) xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, như: lăng mạ, chửi rủa thậm tệ, cạo đầu, cắt tóc, lột quần áo giữa đám đông… Để làm nhục người khác, người phạm tội có thể có những hành vi vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực như bắt trói, tra khảo, vật lộn, đấm đá hoặc dùng phương tiện nguy hiểm khống chế, đe dọa, buộc người bị hại phải làm theo ý muốn của mình. Tất cả hành vi, thủ đoạn đó chỉ nhằm mục đích là làm nhục chứ không nhằm mục đích khác. Nếu hành vi làm nhục người khác lại cấu thành một tội độc lập thì tùy trường hợp cụ thể, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục và tội tương ứng với hành vi đã thực hiện.

Ý thức chủ quan của người phạm tội là mong muốn cho người bị hại bị nhục với nhiều động cơ khác nhau, có thể trả thù chính người bị hại hoặc cũng có thể trả thù người thân của người bị hại.

Người bị hại phải là người bị xâm phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự nhưng thế nào là nhân phẩm, danh dự bị xâm phạm nghiêm trọng là một vấn đề khá phức tạp. Bởi vì cùng bị xâm phạm như nhau nhưng có người bị thấy nhục hoặc rất nhục nhưng có người lại thấy bình thường. Về phía người phạm tội cũng có nhận thức tương tự, họ cho rằng với hành vi như thế thì người bị làm nhục sẽ nhục hoặc rất nhục nhưng người bị hại lại thấy chưa bị nhục. Nếu chỉ căn cứ vào ý thức chủ quan của người phạm tội hay người bị hại thì cũng chưa thể xác định một cách chính xác mà phải kết hợp với các yếu tố như trình độ nhận thức, mối quan hệ gia đình và xã hội, địa vị xã hội, quá trình hoạt động của bản thân người bị hại, phong tục tập quán, truyền thống gia đình… Dư luận xã hội trong trường hợp này cũng có ý nghĩa quan trọng để xác định nhân phẩm, danh dự của người bị hại bị xâm phạm tới mức nào. Sự đánh giá của xã hội trong trường hợp này có ý nghĩa rất lớn để xác định hành vi phạm tội của người có hành vi làm nhục.

Trên đây là một số khía cạnh liên quan đến hành vi chửi bới lăng mạ người khác. Luật Rong Ba hy vọng bài viết trên đã có thể giúp quý khách hàng hiểu rõ hơn phần nào về hành vi chửi bới lăng mạ người khác. Nếu như bạn đang gặp phải khó khăn trong quá trình tiến hành áp dụng pháp luật vào giải quyết công việc hoặc những tình huống phát sinh trong cuộc sống hàng ngày, hãy liên hệ Luật Rong Ba để được tư vấn miễn phí. Chúng tôi chuyên tư vấn các thủ tục pháp lý trọn gói, chất lượng, uy tín mà quý khách đang tìm kiếm.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

You cannot copy content of this page

Messenger
Zalo
Hotline
Gmail
Nhắn tin